Trà Cổ nằm ở nơi ”đặt nét bút đầu tiên để vẽ hình chữ S của bản đồ đất nước”. Trà Cổ có bãi biển đẹp lý tưởng cho du khách. Cư dân Trà Cổ vốn gốc ở Ðồ Sơn. Ðình Trà Cổ cũng là nơi thờ Quận He (Nguyễn Hữu Cầu), một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa thời Lê – Trịnh. Ngôi đình lớn đại diện cho kiến trúc đình làng của người Việt hiện nay vẫn được bảo tồn.
Ðình Trà Cổ là một công trình kiến trúc độc đáo thể hiện qua nghệ thuật trạm khắc công phu, tinh xảo mang đậm nét văn hoá truyền thống dân tộc và đã được Bộ Vãn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật.
Đình được xây dựng vào năm Quang Thuận thứ 2 (1462) và được sửa chữa nhiều lần về sau, nhưng vẫn giữ được những nét đặc trưng về phong cách kiến trúc và nghệ thuật chạm khắc như lúc khởi dựng.
Mặc dù được xây dựng tại vùng biên giới giáp với Trung Quốc nhưng đình Trà Cổ hoàn toàn mang phong cách kiến trúc Việt Nam, mang đậm chất văn hóa của người Việt, không hề lai căng pha tạp đồng hóa với kiến trúc Trung Hoa, điều này càng khẳng định rằng cha ông ta ngày xưa đã rất coi trọng bản sắc văn hóa dân tộc. Đình Trà Cổ như một “cột mốc văn hóa” khẳng định chủ quyền văn hóa của Việt Nam. Trải qua gần sáu trăm năm thăng trầm của đất nước, không ít cơn binh lửa can qua nhưng đình vẫn giữ nguyên dáng vẻ và phong cách như xưa.
Ðình được dựng theo kiểu chữ công trên diện tích 400 m2. Toà bái đường 7 gian, bên trong gác dầm lát vát 48 cột gỗ lim, cột cái cao trên 4,5 m, chu vi 1,5 m.
Bộ khung mái làm bằng gỗ quí chạm khắc công phu, tinh tế. Bốn đầu đao uốn cong gắn hình rồng, những đầu bẩy lực lưỡng chạm rồng đỡ mái hiên làm cho ngôi đình trông bề thế, đồ sộ.
Trong đình, ngoài những bức hoành phi câu đối sơn son thếp vàng rực rỡ là những bức cửa võng lớn chạm tiên cưỡi rồng vượt biển, lưỡng long chầu nguyệt.
Ðồ thờ phần lớn bằng đồng có kích thước lớn, đặc biệt có đôi hạc gỗ cao trên 1,5 m trông khá sinh động, và hàng chục bức chạm trổ sinh động, nhiều câu đối hoành phi sơn son thếp vàng. Các bức cửa võng được chạm trổ hình tiên nữ cưỡi rồng bay trong mây, dưới là sóng biển nhấp nhô, phần trên là hình rồng chầu mặt trời. Ngoài hình tứ linh còn có hình hươu sao cổ dài, có sừng, cộc đuôi, tư thế chạy hay đứng quay đầu, mồm ngậm hoa cúc.
Mặt bằng đình theo kiểu chữ Đinh, tiền đường gồm 5 gian, 2 chái, hậu cung có 3 gian. Mái đình hơi võng, lợp ngói mũi giống như những ngôi đình của các làng quê đồng bằng sông Hồng.
Đình thờ 6 vị Thành Hoàng làng đã có công lập nên xã Trà Cổ xưa. Truyền rằng Trà Cổ tổ Đồ Sơn – Những người dân Đồ Sơn xưa đã đến nơi này – Họ là những ngư dân, là những người lính ra trấn giữ mảnh đất này của Tổ quốc và ở lại sinh cơ lập nghiệp lập nên làng chài Trà Cổ. Hàng ngàn năm qua đi, người dân Trà Cổ vẫn còn giữ nguyên nền nếp của người dân vùng biển Đồ Sơn.
Lễ hội Trà Cổ được diễn ra trong khoảng thời gian từ 30/5 đến hết 6/6 âm lịch. Lễ hội là lễ rước Vua ra bể (còn gọi là rước vua ra miếu), với nghi thức một đội quân cầm vũ khí, cờ thần, phường bát âm, bát bửu, tiếp đến là người cầm cờ và phải là người cường tráng trẻ đẹp và có đạo đức được làng bầu chọn từ cuối hội nãm trước cùng những người khiêng kiệu.
Sau lễ rước là cuộc thi các sản phẩm chăn nuôi trồng trọt mà biểu thị chủ yếu là thi các chú lợn mà người ta gọi là các Ông Voi. Các Ông Voi được các cai đám và dân làng chăm sóc chu đáo từ nhiều tháng trước khi vào hội.
Nét độc đáo của lễ hội Trà Cổ là có hội thi làm cỗ, thi nấu ăn, ai nấu ăn giỏi đều được cả làng biết đến. Ngày mùng 6 là ngày kết thúc lễ hội có múa bông. Trong ngày múa bông, người ta cầu mong trời đất thần linh phù trợ cho đánh bắt được nhiều cá tôm, buôn bán phát đạt, chăn nuôi, trồng cây tươi tốt, cuộc sống ấm no.
Lễ hội đình làng Trà Cổ không những thể hiện lòng biết ơn, tưởng nhớ của con người đối với các vị thành hoàng mà còn thể hiện ý thức trách nhiệm của người dân trong tham gia bảo vệ và xây dựng biên giới ngày càng giàu mạnh. Về với vùng đất biên cương cực Ðông Bắc này, khi kính cẩn thắp một nén nhang thơm dưới mái đình làng biển. Sự vươn lên mạnh mẽ của vùng đất và con người Trà Cổ cùng với những giá trị văn hóa không thể phủ nhận là minh chứng rõ ràng nhất về sự trường tồn và lớn mạnh của Tổ quốc.
Leave a Reply
View Comments